Chúng tôi sử dụng cookie để tìm hiểu thêm về cách bạn sử dụng trang web và từ đó đưa ra những cải tiến phù hợp. Tiếp tục sử dụng trang web bằng cách nhấp vào "Chấp nhận". Chi tiết
Cẩm nang thị trường Cổ phiếu Những điều cần biết về quy luật giá trị yêu cầu

Những điều cần biết về quy luật giá trị yêu cầu

Lý thuyết giá trị kinh tế là cốt lõi của kinh tế học là một khái niệm thú vị đối với tất cả các nhà triết học và các nhà tư tưởng kinh tế cổ điển và tân cổ điển cho đến tận ngày nay. Các nhà kinh tế của cuộc cách mạng cận biên đã tìm thấy nguồn gốc của giá trị trong trao đổi, trong thị trường xây dựng Lý thuyết giá trị. Vậy quy luật giá trị yêu cầu là gì và nội dung của nó như thế nào?

Ảnh đại diện tác giả
TOPONE Markets Analyst 2023-03-15
Biểu tượng con mắt 7216

Marx khẳng định, quy luật giá trị không chỉ đúng trong “trạng thái tự nhiên” như John Locke đã lập luận, hay trong “trạng thái sơ khai và thô sơ của xã hội”, như chúng ta đọc trong Adam Smith, nó còn đúng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, là phương thức sản xuất phát triển nhất trong lịch sử. Bằng cách thiết lập “luật” này, Marx đã tìm cách chỉ ra rằng chủ nghĩa tư bản, không kém gì các phương thức sản xuất trước đây, dựa trên sự bóc lột của một giai cấp xã hội, công nhân, bởi một giai cấp khác, giai cấp hữu sản, bao gồm các nhà tư bản và địa chủ. 


Quy luật giá trị là gì?

Khái niệm

Quy luật giá trị là gì?

Quy luật giá trị yêu cầu là duy nhất đối với một xã hội trong đó hình thức lao động chiếm ưu thế là sản xuất để trao đổi trên thị trường. Quan hệ giữa người với người trở thành quan hệ giá trị giữa hàng hóa. Và những quan hệ giá trị này trở thành những lực lượng phi cá nhân gây ra những hậu quả bất ngờ cho xã hội. Chẳng hạn, chúng ta nhận được vốn. Mọi người luôn sử dụng các công cụ và các nguồn lực khác trong lao động của họ. Chúng được gọi là “phương tiện sản xuất”. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất trở thành tư bản. Công cụ, máy móc, vật liệu và thậm chí cả người lao động đều là hàng hóa có giá trị. Điều này cho phép mua tư liệu sản xuất trên thị trường và bán sản phẩm của những tư liệu sản xuất đó để kiếm lời. Đó là, một người có thể đầu tư tiền vào sản xuất chỉ vì mục đích kiếm được nhiều tiền hơn. Bản thân việc theo đuổi giá trị như một mục đích đã trở thành lực lượng thống trị trong xã hội. Đây chính là vốn là gì, sự mở rộng giá trị vì lợi ích của chính nó, bất kể chi phí xã hội. Tư bản có hình thức là một lớp sở hữu tư liệu sản xuất và một lớp khác phải tạo ra lợi nhuận cho tư bản.


Vốn vốn đã bất đối xứng, các cực lớn của sự giàu có và nghèo đói lan rộng từ nó trong không gian địa lý và kinh tế. Vốn cũng tự phủ định. Mặc dù nó đại diện cho một lực lượng phi cá nhân ở trên xã hội, thống trị người lao động, nhưng nó cũng dựa vào người lao động để tạo ra lợi nhuận cho nó. Có một sự đối kháng xã hội ở gốc rễ của nó. Sự đối kháng xã hội này dẫn đến khủng hoảng định kỳ và bất ổn liên tục. Tất cả những hàm ý cấp tiến này và nhiều hàm ý khác nữa là một phần của học thuyết giá trị của Marx.

Nội dung của quy luật giá trị

Thứ nhất, sản xuất hàng hóa dẫn đến sự hao phí lao động xã hội cần thiết. Tức là chúng ta cần tiết kiệm sức lao động để: Nói cách khác, đó là giá cả thị trường của hàng hóa, và việc sản xuất hàng hóa mới mang lại lợi thế cạnh tranh cao.


Thứ hai, việc trao đổi hàng hoá phải tôn trọng nguyên tắc ngang giá. Điều này có nghĩa là có thể trang trải chi phí của người sản xuất (chi phí hợp lý) và đảm bảo rằng các hoạt động sản xuất có lãi để tiếp tục sản xuất.


 Sự hoạt động và chức năng của quy luật giá trị được thể hiện qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì vậy, cần phải dựa vào giá trị của hàng hóa.


Thị trường cũng phụ thuộc vào các yếu tố khác như cạnh tranh, cung và cầu và sức mua của một loại tiền tệ. Tác động của những yếu tố này tách rời giá cả hàng hóa trên thị trường khỏi giá trị, xoay chúng lên và xuống xung quanh trục giá trị. Sự vận động và thay đổi này chính là cơ chế hoạt động của Quy luật giá trị.


Quy luật giá trị tự động điều chỉnh tư liệu sản xuất và phân bổ sức lao động cho các ngành sản xuất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. đồng thời hút hàng hóa từ giá thấp đến giá cao, giúp duy trì cân đối hàng hóa nhất định giữa các vùng miền.


Kích thích cải tiến công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm... Để tồn tại và có lãi, tất cả những người sản xuất trong sản xuất hàng hóa đều phải tuân thủ mức sản lượng sau đây Lao động cá nhân của anh ta phải trả giá bằng công việc xã hội cần thiết.

Tác động của quy luật giá trị

Các tác động của quy luật giá trị yêu cầu như sau:

  • Thứ nhất, quy định về sản xuất và phân phối hàng hóa trên thị trường. Điều tiết sản xuất là việc kiểm soát và phân phối các yếu tố sản xuất cho các ngành kinh tế và các vùng sản xuất.

  • Nếu Cung < Cầu: Hàng sản xuất ra có lãi và bán chạy do giá vượt quá giá trị. Nếu giá của một hàng hóa cao hơn giá trị của nó, điều này sẽ dẫn đến việc mở rộng và tăng sản xuất, tăng nguồn cung. Ngược lại, khi giá của một sản phẩm tăng lên, nhu cầu giảm.

  • Nếu cung > cầu, hàng hóa sẽ được sản xuất nhiều hơn nhu cầu thị trường, giá cả sẽ thấp hơn giá trị của nó, hàng hóa sẽ bán được ít hơn và sản xuất sẽ không có lãi. Do đó, các nhà sản xuất ngừng hoặc giảm sản xuất. Nếu giá giảm, nhu cầu về sản phẩm sẽ tăng lên. Cung = Cầu: Giá phù hợp với giá trị.

  • Hai là, đẩy mạnh cải tiến công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển năng suất xã hội. Những người sản xuất có mức hao phí lao động cá nhân cao hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ bị lỗ. Để đạt được lợi thế cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ hoặc phá sản, cần phải hạ chi phí lao động cá biệt xuống dưới mức chi phí lao động xã hội cần thiết. Để làm được điều này, các nhà sản xuất phải có biện pháp tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất, đảm bảo lợi thế cạnh tranh.

  • Thứ ba, phân chia người sản xuất hàng hóa thành người giàu và người nghèo.

  • Quá trình cạnh tranh giá trị tất yếu dẫn đến: Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, tri thức cao, trang bị kỹ thuật tốt thì hao phí lao động cá nhân thấp hơn, được hưởng lợi nhiều hơn từ hao phí lao động xã hội cần thiết, và sẽ giàu có hơn. .Mở rộng sản xuất và quy mô. Ngược lại, những người không có lợi thế cạnh tranh sẽ dần thua lỗ và trở nên nghèo hơn.

Lý thuyết giá trị trong tư duy kinh tế tân cổ điển

Trong cái gọi là nghịch lý giá trị (nước và kim cương), Adam Smith một lần nữa đặt vấn đề về hai khái niệm giá trị do Aristotle nghiên cứu, giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.


Bằng nghịch lý giá trị, Smith nói với chúng ta rằng giá trị sử dụng là thiết yếu đối với giá trị trao đổi, nhưng nó không quyết định nó, khía cạnh được Ricardo và Marx nhấn mạnh sau này. Giá trị sử dụng không chỉ là một vấn đề cá nhân và chủ quan, trong khi giá trị trao đổi là một vấn đề xã hội và nó được quan sát đặc biệt trên thị trường thông qua giá cả. Không có lý thuyết tiện ích của người tiêu dùng vào thời điểm đó, Smith không thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa giá trị sử dụng và giá cả.


Trong quá trình tiếp cận của mình, Smith xử lý giá trị trao đổi, nhằm trả lời các câu hỏi sau: thước đo thực sự của giá trị trao đổi là gì, đâu là các thành phần của chi phí thực và đâu là hoàn cảnh dẫn đến sự khác biệt hóa giá thị trường của giá thực hay giá tự nhiên. giá.


Về trao đổi hàng hóa, Smith cố gắng chỉ ra rằng có một yếu tố chung cần thiết cho khả năng so sánh của chúng và dựa vào đó việc trao đổi được thực hiện. Yếu tố chung này là giá trị.


Tác giả cuốn Của cải của các quốc gia chỉ ra rằng hàng hóa đắt tiền đòi hỏi nhiều lao động và hàng hóa rẻ tiền đòi hỏi ít lao động hơn, và kết quả là, công việc không làm thay đổi giá trị của nó luôn có thể được đánh giá và so sánh, là giá thực của một hàng hóa, tiền đại diện cho một giá danh nghĩa này. (Giá thị trường). Theo lập luận này, cụ thể là lao động là thước đo thực sự của giá trị của trao đổi cơ bản, Smith đã thêm vào những ý tưởng sơ khai về giá trị của trang web một nền tảng chính sẽ củng cố lý thuyết giá trị lao động sau này. Ngoài ra, Smith xác định hai câu trả lời tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của xã hội


Như vậy, trong xã hội nguyên thủy, sức lao động là thước đo duy nhất của giá trị trao đổi.


Nhưng khi xã hội phát triển và vượt qua giai đoạn tích lũy tư bản thô sơ, vấn đề giá trị trở nên phức tạp hơn. Có các yếu tố sản xuất, tư bản và đất đai mới đóng góp sức lao động vào bất kỳ quá trình sản xuất nào.


Những gì còn lại cho chủ sở hữu sau khi thanh toán tiền công và vật liệu đó là lợi nhuận. Vì vậy, Smith nói, giá trị gia tăng do công nhân thêm vào đầu vào bao gồm hai hoặc ba phần: một là trả lương và một là chủ sở hữu lợi nhuận và thứ ba là tiền thuê, các thành phần được tìm thấy, hiển nhiên trong giá hàng hóa. Vì vậy, giá trị mới được tạo ra này bao gồm thu nhập của ba yếu tố sản xuất: tiền lương của công nhân, lợi nhuận của nhà tư bản hoặc chủ sở hữu tư liệu sản xuất và tiền thuê lại cho địa chủ. Nhưng mặc dù tiền lương, lợi nhuận và địa tô là nguồn gốc ban đầu của mọi giá trị, nhưng tất cả những thứ này không thể hình thành nếu không có lao động. Vì vậy, lao động vẫn là nguồn gốc của giá trị.


David Ricardo tin rằng không thể hiểu đúng về các quy luật của chủ nghĩa tư bản nếu không làm sáng tỏ những vấn đề gây tranh cãi nhất đã thúc đẩy từ Aristotle cho đến thời của ông, đó là giá trị. Ngoài ra, trong một bức thư gửi Thomas Malthus, ngày 7 tháng 2 năm 1816, Ricardo thú nhận rằng “Nếu tôi có thể vượt qua những trở ngại trong cách đưa ra một cái nhìn sâu sắc rõ ràng về quy luật nguyên thủy của giá trị tương đối hoặc giá trị có thể trao đổi, thì tôi đã thắng được một nửa trận chiến. …” (Bonar, 1887)


Ricardo nhận thấy lý thuyết giá trị do Adam Smith phát triển là mâu thuẫn và không thỏa đáng và ông đang tập trung nỗ lực để hiểu và giải thích sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng kinh tế bằng cách sử dụng lý thuyết giá trị lao động hỗ trợ cho toàn bộ phương pháp khoa học của ông.


Trong cuốn sách của mình, Về các nguyên tắc của kinh tế chính trị và thuế, Ricardo cho thấy giá trị và tính hữu dụng là những thuật ngữ khác nhau và giá trị của hàng hóa không nằm ở tính hữu dụng của nó. Công dụng hay giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết của giá trị trao đổi, nhưng nó không phải là đơn vị đo lường của nó. Hàng hóa hữu ích (đáp ứng nhu cầu của mọi người) tìm thấy giá trị của chúng trong sự hiếm có và số lượng lao động cần thiết để sản xuất chúng. Nhưng ở đây, Ricardo nói, có một số hàng hóa chỉ có giá trị vì chúng hiếm và không có lượng lao động nào có thể nâng cao hoặc làm giảm giá trị (tranh vẽ, tác phẩm điêu khắc, v.v.). Nếu giá trị trao đổi được quy cho lượng lao động bỏ ra để sản xuất ra hàng hóa, thì bất kỳ sự thay đổi nào đối với lượng công việc sẽ kéo theo sự thay đổi theo cùng nghĩa với giá trị của những hàng hóa đó, điều này là không đúng.


Trong Wealth of Nations, Adam Smith coi lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa là thước đo giá trị và theo tiêu chuẩn này, hàng hóa có giá trị cao hay thấp là do chúng có thể thay đổi được. David Ricardo rõ ràng không đồng ý với Smith, lập luận rằng lao động cần thiết để sản xuất hàng hóa không bằng lao động thu được để đổi lấy hàng hóa. Nếu hai đại lượng lao động bằng nhau, mỗi đại lượng có thể đo lường chính xác những thay đổi của các hàng hóa khác.


Một trong những đóng góp chính của David Ricardo là giá trị của một hàng hóa không chỉ được quy cho lao động để sử dụng nó.


Nội dung của quy luật giá trị

Kết luận

Quy luật giá trị là một trong những quy luật căn bản và ra đời sớm nhất liên quan đến hàng hóa và lưu thông trên thị trường. Tuy đã ra đời từ rất sớm nhưng quy luật giá trị yêu cầu vẫn được áp dụng thường xuyên trong sản xuất kinh doanh và mang lại lợi nhuận to lớn cho các nhà đầu tư nếu biết sử dụng nó đúng cách.

  • Biểu tượng chia sẻ Facebook
  • Biểu tượng chia sẻ X
  • Biểu tượng chia sẻ Instagram

Bài Đăng Hàng Đầu

Hình quảng cáo trong bài viết
Cơ hội vàng, đừng bỏ lỡ-Tặng ngay $100 MIỄN PHÍ để giao dịch tại TOPONE.
Vàng Vàng

Giúp nhà đầu tư kiếm tiền trong thị trường giao dịch với cơ chế hoàn tiền thường.

Chi phí và phí giao dịch demo

Bạn cần hỗ trợ?

7×24 H

Tải về APP
Biểu tượng đánh giá

Miễn phí tải xuống ứng