Chúng tôi sử dụng cookie để tìm hiểu thêm về cách bạn sử dụng trang web và từ đó đưa ra những cải tiến phù hợp. Tiếp tục sử dụng trang web bằng cách nhấp vào "Chấp nhận". Chi tiết
Cẩm nang thị trường Cổ phiếu Tình hình nợ xấu tại Việt Nam

Tình hình nợ xấu tại Việt Nam

Bất chấp những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, tín dụng của nền kinh tế nước nhà vẫn tăng so với các năm trước. Tin xấu là nợ xấu tăng cao khó tránh khỏi ở nhiều ngân hàng. Vậy nợ xấu là gì và tình hình nợ xấu ở Việt Nam như thế nào?

Ảnh đại diện tác giả
TOPONE Markets Analyst 2023-01-06
Biểu tượng con mắt 211

Các doanh nghiệp và cá nhân tận dụng cơ sở của một khoản vay để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính. Tương tự như vậy, các công ty bán sản phẩm cho khách hàng bằng tín dụng với một kỳ vọng hoàn trả nhất định. Có thể xảy ra trường hợp doanh nghiệp không nhận được toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp đã cung cấp tín dụng cho khách hàng và số tiền đó trở thành không thể thu hồi được, còn được gọi là nợ khó đòi (nợ xấu)


{keywords}

Định nghĩa

Nợ xấu là gì?

Một khoản nợ khó đòi đề cập đến một khoản phải thu đã được xác định cụ thể là không thể thu hồi và do đó, nó bị xóa sổ. Nợ khó đòi xảy ra khi người vay hoặc con nợ vỡ nợ - không trả được khoản vay hoặc nợ của mình. Các tài khoản như vậy được xóa khỏi các khoản phải thu. Sau đó, bạn khớp nó với hóa đơn gốc. Bằng cách này, bạn xóa cả thư báo ghi có cũng như hóa đơn khỏi báo cáo sao kê tài khoản phải thu.


Nợ khó đòi là một loại tài khoản phải thu đối với một tổ chức không thể thu hồi được từ khách hàng do khách hàng không có khả năng thanh toán số tiền đã vay tín dụng từ tổ chức. Những lý do khiến con nợ không thể trả nợ có thể khác nhau từ cá nhân hoặc tổ chức bị phá sản hoặc gặp vấn đề nghiêm trọng về tài chính, hoặc có thể là do con nợ không sẵn sàng trả nợ. Các khoản nợ khó đòi được ghi nhận trên báo cáo tài chính như một khoản dự phòng rủi ro tín dụng.

Tài khoản đáng ngờ là gì?

Nợ khó đòi đề cập đến một khoản phải thu có khả năng trở thành khoản không thu được trong tương lai. Rất khó để chỉ ra khách hàng cụ thể nào có khả năng vỡ nợ. Vì lý do này, các ngân hàng thường tạo cái mà chúng ta gọi là tài khoản dự phòng (còn được gọi là dự phòng nợ khó đòi hoặc trợ cấp cho các khoản phải thu khó đòi) cho các khoản phải thu có khả năng trở thành nợ khó đòi. Khoản dự phòng cho các tài khoản nợ khó đòi cho thấy số dư nợ hiện tại mà ngân hàng dự kiến sẽ không trả được nợ, do đó, có sự điều chỉnh được thực hiện đối với bảng cân đối kế toán để phản ánh số dư cụ thể đó.

Dự trữ nợ khó đòi là gì?

Khoản dự phòng nợ khó đòi, còn được gọi là Khoản dự phòng cho các khoản đáng ngờ, là ước tính về các khoản phải thu của công ty không thể thu được nữa do vỡ nợ. Tạo dự phòng nợ khó đòi làm giảm các khoản phải thu trên bảng cân đối kế toán của công ty. Khoản Cho phép đối với Tài khoản Đáng ngờ là tài khoản Contra. Tài khoản đối ứng là tài khoản tài sản được sử dụng để bù đắp cho tài khoản mẹ - trong trường hợp này là các khoản phải thu. Trợ cấp của tôi sẽ là một số âm vì nó bù trừ. Lấy Tài khoản phải thu và tài khoản đối ứng cùng nhau sẽ cung cấp cho bạn giá trị thuần có thể thực hiện được của tôi, tổng giá trị tiền mặt. Số tiền mà một công ty giữ làm khoản dự phòng nợ khó đòi được xác định bởi ban quản lý của công ty và bản chất của ngành.Tỷ lệ phần trăm doanh thu hoặc mức trung bình lịch sử cũng có thể được sử dụng để ước tính chi phí nợ xấu trong công ty.

Xoá sổ là gì?

Xoá sổ đề cập đến một thuật ngữ trong kế toán trong đó một doanh nghiệp giảm giá trị tài sản của mình vì không thể thu hồi được (một khoản nợ khó đòi), dẫn đến thua lỗ. Vì vậy, để hạch toán, doanh nghiệp thường xóa sổ để có thể cân đối tài khoản.


Các doanh nghiệp sử dụng một khoản xóa sổ để giải thích cho những điều sau:

  • Nghĩa vụ vay séc chưa thanh toán

  • Các khoản phải thu chưa thanh toán

  • Mất hàng tồn kho

Đặc điểm của nợ xấu

Ví dụ về nợ xấu

Ví dụ về nợ xấu có thể được thảo luận như sau:


Giả sử Công ty ABC sản xuất máy tính xách tay và bán chúng cho các nhà bán lẻ. Một nhà bán lẻ nhận được 30 ngày để trả tiền cho Công ty ABC sau khi nhận được máy tính xách tay. Công ty ABC ghi số tiền đến hạn là "các khoản phải thu" trên bảng cân đối kế toán và ghi nhận doanh thu. Tuy nhiên, khi thời hạn 30 ngày trôi qua, Công ty ABC nhận ra rằng nhà bán lẻ sẽ không thực hiện thanh toán. Sau nhiều lần cố gắng, công ty ABC không thể thu được khoản thanh toán và do đó, nó sẽ được coi là một khoản nợ khó đòi.

Phương pháp tính chi phí nợ khó đòi

Có hai phương pháp để tính chi phí nợ khó đòi:

  • Phương pháp ghi trực tiếp: Trong phương pháp này, khoản nợ khó đòi được xóa trực tiếp vào tài khoản phải thu. Tài khoản nợ khó đòi được ghi nợ và tài khoản phải thu được ghi có. Có một nhược điểm đối với phương pháp này, mặc dù nó ghi lại chính xác số nợ không thể thu hồi, nhưng nó không tuân thủ nguyên tắc phù hợp được sử dụng trong kế toán dồn tích. Theo nguyên tắc, một khoản chi phí phải được ghi nhận tại thời điểm giao dịch chứ không phải tại thời điểm thanh toán được thực hiện. Vì vậy, việc xác định nợ khó đòi về mặt lý thuyết là không chính xác lắm.

  • Phương pháp trợ cấp: Phương pháp trợ cấp: Phương pháp này thích hợp hơn khi có một số tiền lớn liên quan. Theo phương pháp này, tổ chức dự đoán rằng các khoản nợ khó đòi sẽ xảy ra và chuẩn bị cho phù hợp. Đối với điều này, một khoản dự phòng cho các tài khoản đáng ngờ được tạo ra, đây là một loại tài khoản đối ứng tài sản và làm giảm tài khoản cho vay phải thu khi cả hai tài khoản được liệt kê trong bảng cân đối kế toán. Khi việc bán hàng được thực hiện, một số tiền ước tính được ghi nhận là một khoản nợ khó đòi và được ghi nợ vào tài khoản chi phí nợ khó đòi và được ghi có vào dự phòng cho các tài khoản khó đòi. Khi các tổ chức muốn xóa nợ khó đòi, dự phòng cho các tài khoản khó đòi được ghi nợ và tài khoản phải thu được ghi có.

Tình hình nợ xấu ở Việt Nam

Thực trạng

Bên cạnh lãi suất và tỷ giá, nợ xấu (NPL) cũng là mối lo theo các chuyên gia. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nếu tính cả nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản nợ được cơ cấu lại thì số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam không thấp và phải được theo dõi liên tục.


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) năm ngoái đã ban hành Thông tư số 14/2021/TTNHNN. Theo thông tư, NHNN yêu cầu các ngân hàng thực hiện giãn nợ để hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 đến ngày 30/6 năm nay. Thông tư cũng cho phép các ngân hàng giữ nguyên phân loại nợ đối với khách hàng vay COVID-19. Theo thống kê của NHNN, đến cuối tháng 4 năm nay, tổng dư nợ đến hạn lũy kế đạt 695 nghìn tỷ đồng, 1,1 triệu khách hàng vay vốn được thụ hưởng chính sách ưu đãi.


Trên thực tế, tỷ lệ nợ xấu trên bảng cân đối kế toán tại các ngân hàng thương mại liên tục tăng từ cuối năm 2020. Tính đến 30/6 năm nay, tổng nợ xấu của 28 ngân hàng niêm yết vào khoảng 122 nghìn tỷ đồng, tăng gần 11% so với cùng kỳ năm ngoái. đến hết quý I và gần 20% so với đầu năm 2022. Các chuyên gia dự báo nợ xấu của các ngân hàng có thể tiếp tục gia tăng khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực vào ngày 30/6 năm nay. Khi không được gia hạn, nhiều khoản nợ sẽ phải liệt vào nhóm nợ xấu nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn, khiến nợ xấu gia tăng.


Trong bối cảnh nợ xấu tiềm ẩn gia tăng và nguồn vốn cung ứng ra nền kinh tế hạn chế trong thời gian tới, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng mới đây đã có văn bản số 5962 yêu cầu Công ty Quản lý tài sản đẩy mạnh xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của nợ xấu; đồng thời chủ động, tích cực phối hợp với cơ quan công an, thuế, tòa án các cấp và các cơ quan liên quan thực hiện có hiệu quả các chính sách xử lý nợ xấu như thu giữ tài sản bảo đảm, áp dụng thủ tục rút gọn trong các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại tòa án.


Các ngân hàng cũng rất tích cực trong việc xử lý tài sản đảm bảo và thu hồi nợ. Họ đã liên tục thúc đẩy việc bán tài sản thế chấp của các khoản nợ xấu. Chẳng hạn Sacombank mới đây cho biết sẽ tiếp tục bán đấu giá 19 căn hộ thuộc dự án Xi Grand Court trong khi BIDV cũng sẽ bán đấu giá 1ha đất tại Khu công nghiệp Chơn Thành và nhiều tài sản gắn liền với nhà máy xi măng DIC Bình Phước với giá khởi điểm giá 31,85 tỷ. 


Tuy nhiên, việc phát mãi tài sản đảm bảo là bất động sản gặp nhiều khó khăn dù các ngân hàng đã tích cực quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng và hạ giá bán. Đơn cử, Sacombank phải giảm mạnh giá 19 căn hộ tại dự án Xi Grand Court từ 100,8 tỷ đồng xuống còn 79 tỷ đồng. Những căn hộ này được rao bán lần đầu vào tháng 7/2020 nhưng sau 2 năm, Sacombank không bán được căn hộ nào và phải giảm giá mạnh.


Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho biết, việc phát mãi tài sản đảm bảo là BĐS đang gặp khó khăn do thị trường BĐS trầm lắng, thanh khoản giảm mạnh.


Tổng giám đốc OCB Nguyễn Đình Tùng cũng thừa nhận việc xử lý nợ xấu hiện khó khăn hơn giai đoạn trước. Bên cạnh đó, ông Lực đề nghị tinh giản Nghị quyết số 42/2017/QH14 để xử lý nợ xấu tốt hơn.

Khuyến nghị trong việc xử lý nợ xấu

Việc bán đấu giá các khoản nợ xấu ở Việt Nam yêu cầu giá khởi điểm được cả ngân hàng và con nợ của họ đồng ý. Điều đó có nghĩa là nếu cả hai bên không thể đạt được sự đồng thuận, họ phải tổ chức một cuộc đấu giá khác với giá khởi điểm mới, kéo dài thêm thời gian xử lý nợ xấu.


Vì lý do này, Việt Nam có thể tổ chức các cuộc đấu giá kiểu Mỹ với giá khởi điểm bằng giá trị của các khoản nợ cộng với một đô la. Những người trả giá cao nhất sẽ trả tiền cho các ngân hàng và nắm quyền sở hữu tài sản thế chấp liên kết với nợ. Trong trường hợp không có nhà thầu nào trả giá cao hơn giá khởi điểm, các ngân hàng sẽ trở thành chủ sở hữu của tài sản thế chấp.


Ngoài ra, Quốc hội nên đưa ra luật về phá sản cá nhân vì ở Việt Nam hiện nay chưa có luật này. Ở Mỹ, tất cả các chủ thể kinh tế đều đủ điều kiện tuyên bố phá sản. Đáng chú ý, cá nhân vỡ nợ có thể nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản hoặc chủ nợ của họ có thể mở thủ tục phá sản đối với cá nhân con nợ của họ. Sau khi tòa án chấp nhận các đơn kiện, có thể quy định rằng các con nợ cá nhân phải bán tài sản của họ để trả nợ cho ngân hàng. Con nợ chỉ được giữ lại một chiếc ô tô để đi lại và một phòng để ở trong trường hợp thanh lý hết tài sản.


Ngoài ra, đối với các ngân hàng trong bối cảnh nợ xấu tăng cao,  họ nên hiểu trước tình hình tài chính của con nợ. Họ không nên cho họ vay tiền trừ khi chúng ta chắc chắn về khả năng trả lại của họ. Thật không may, nhiều ngân hàng cấp các khoản vay cho con nợ chỉ dựa trên tài sản thế chấp của họ mà không quan tâm đến khả năng sinh lời của họ. Các ngân hàng này nghĩ rằng họ có thể tịch thu tài sản thế chấp trong trường hợp vỡ nợ, vì vậy rủi ro không thu hồi được nợ là thấp. Phải nói các ngân hàng này đang hoạt động mà không có một quy trình quản lý rủi ro phù hợp. Vì vậy, điều quan trọng là các ngân hàng phải có một quy trình quản lý rủi ro chặt chẽ để ngăn chặn nợ xấu. Nhiều ngân hàng Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu của Basel II về quản trị rủi ro. Tôi hy vọng rằng các ngân hàng này sẽ tiếp tục thắt chặt quy trình vì quản lý rủi ro là quan trọng hơn bao giờ hết trong tình hình hiện nay. 


Bad debts remain a challenge for banks in Q4 2022 hinh anh 1

Kết luận

Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng được dự báo sẽ tiếp tục tăng đều do đại dịch, khiến các ngân hàng gặp rủi ro và đặt ra yêu cầu phải có luật mới về nợ xấu cũng như tự chuẩn bị cho mình các biện pháp cần thiết để vượt qua tình hình này một cách thuận lợi nhất.

  • Biểu tượng chia sẻ Facebook
  • Biểu tượng chia sẻ X
  • Biểu tượng chia sẻ Instagram

Bài Đăng Hàng Đầu

Hình quảng cáo trong bài viết
Cơ hội vàng, đừng bỏ lỡ-Tặng ngay $100 MIỄN PHÍ để giao dịch tại TOPONE.
Vàng Vàng

Giúp nhà đầu tư kiếm tiền trong thị trường giao dịch với cơ chế hoàn tiền thường.

Chi phí và phí giao dịch demo

Bạn cần hỗ trợ?

7×24 H

Tải về APP
Biểu tượng đánh giá

Miễn phí tải xuống ứng