Chúng tôi sử dụng cookie để tìm hiểu thêm về cách bạn sử dụng trang web và từ đó đưa ra những cải tiến phù hợp. Tiếp tục sử dụng trang web bằng cách nhấp vào "Chấp nhận". Chi tiết
Cẩm nang thị trường Cổ phiếu Những điều cần biết về bảo hiểm xã hội

Những điều cần biết về bảo hiểm xã hội

Nếu bạn là một người lao động, bạn không thể không biết đến bảo hiểm xã hội. Vậy bảo hiểm xã hội là gì?

Ảnh đại diện tác giả
TOPONE Markets Analyst 2022-12-06
Biểu tượng con mắt 255

Bảo hiểm xã hội là hình thức bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Hoạt động lao động của con người luôn sản sinh ra những chính sách và lợi ích nhằm đảm bảo sức khỏe, tinh thần và lợi ích lao động. An sinh xã hội vì thế giống như một cánh tay giúp con người chống lại những rủi ro đe dọa đến tính mạng.


Khái niệm

Bảo hiểm xã hội là gì?

Bảo hiểm xã hội, chương trình bảo hiểm công cung cấp sự bảo vệ chống lại các rủi ro kinh tế khác nhau. Bảo hiểm xã hội được coi là một loại an sinh xã hội.


Bảo hiểm xã hội được định nghĩa là một tập hợp các chương trình do chính phủ cung cấp nhằm bảo vệ mọi người khỏi những khó khăn về tài chính có thể xảy ra do các tình huống không lường trước được hoặc không thể tránh khỏi, chẳng hạn như mất việc làm, khuyết tật về thể chất hoặc giảm thu nhập do nghỉ hưu.


Bảo hiểm xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nó giúp tính toán những bất trắc trong cuộc sống mà mọi người có thể gặp phải trong thời kỳ khủng hoảng sức khỏe và nghỉ hưu. Do đó, cần phải bảo vệ khỏi những rủi ro dài hạn không thể tránh khỏi.

Lịch sử hình thành

Các chương trình bảo hiểm xã hội bắt buộc đầu tiên trên quy mô toàn quốc được thành lập ở Đức dưới thời Thủ tướng Otto von Bismarck: bảo hiểm y tế vào năm 1883, bồi thường cho người lao động vào năm 1884, và trợ cấp người già và thương tật vào năm 1889. Áo và Hungary đã sớm noi gương Đức. Vấn đề bảo hiểm xã hội ở những nơi khác ở châu Âu bị chi phối bởi cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ bảo hiểm tự nguyện, được trợ cấp và những người ủng hộ một hệ thống bắt buộc. Vương quốc Anh áp dụng bảo hiểm y tế bắt buộc quốc gia vào năm 1911 và mở rộng đáng kể vào năm 1948. Sau năm 1920, bảo hiểm xã hội trên cơ sở bắt buộc đã nhanh chóng được áp dụng trên khắp châu Âu và Tây bán cầu. Hoa Kỳ tụt hậu so với Châu Âu; cho đến năm 1935, với việc thông qua Đạo luật An sinh Xã hội, các chương trình bảo hiểm của chính phủ hoàn toàn thuộc trách nhiệm của chính quyền tiểu bang hoặc địa phương. Ba chương trình bảo hiểm liên bang được áp dụng tại Hoa Kỳ từ năm 1935 cung cấp các khoản trợ cấp hưu trí và tiền tuất, chăm sóc sức khỏe cho những người trên 65 tuổi và bảo hiểm khuyết tật.

Đặc điểm của bảo hiểm xã hội

  • Bảo hiểm xã hội yêu cầu thành lập một quỹ chung để chi trả tất cả các hình thức phúc lợi, bằng tiền hoặc bằng cách khác. Quỹ chung này do tất cả người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước đóng góp.

  • Đóng góp của người lao động được giữ ở mức tối thiểu để đảm bảo không vượt quá khả năng chi trả của họ. Mặt khác, nhà nước và người sử dụng lao động đóng góp một phần đáng kể vào quỹ. Do đó, đóng góp của người lao động và lợi ích của họ không tương ứng.

  • Các lợi ích được cung cấp cho tất cả người lao động như một phần quyền của họ.

  • Bảo hiểm xã hội là một nhiệm vụ được cung cấp trên cơ sở bắt buộc, có nghĩa là những lợi ích lý tưởng nên đến với tất cả những người nghèo có bảo hiểm.

Tại sao cần bảo hiểm xã hội?

  • Thông tin bất đối xứng là một thách thức đáng kể ở hầu hết các thị trường. Một ví dụ đơn giản là một bệnh nhân có ít thông tin hơn về bệnh của họ so với bác sĩ. Do đó, bác sĩ có thể tính phí cao hơn nhiều so với yêu cầu do sự thiếu hiểu biết của bệnh nhân. Bảo hiểm xã hội giải quyết vấn đề bất đối xứng này vì nó cung cấp một loạt chi phí cho mọi vấn đề mà bệnh nhân có thể báo cáo.

  • Bảo hiểm xã hội là một hình thức phân phối lại thu nhập từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp. Hầu hết các chương trình bảo hiểm xã hội nhằm mục đích giảm nghèo và bất bình đẳng. Do đó, việc cung cấp các chương trình này sẽ cần phân phối lại và xóa đói giảm nghèo cho những người không đủ khả năng chi trả cho các dịch vụ thiết yếu như chăm sóc sức khỏe.

  • Ngoại tác là những hậu quả tích cực hoặc tiêu cực ngoài ý muốn của hoạt động kinh tế, xã hội hoặc chính trị đối với bên thứ ba. Bảo hiểm xã hội có vẻ sẽ chi trả cho mọi người những tác động bên ngoài mà họ phải đối mặt do bất kỳ hoạt động nào đang diễn ra trong nền kinh tế.

Bảo hiểm xã hội được tính như thế nào?

Các khoản đóng góp được xác định dựa trên tiền lương hoặc tiền công hàng tháng của người lao động. Mặc dù số tiền phải nộp sẽ khác nhau tùy thuộc vào mức lương của người lao động, cần lưu ý rằng mức trần tiền lương để tính các khoản đóng góp được áp dụng bằng 20 lần mức lương tối thiểu chung cho bảo hiểm xã hội và y tế (Hiện tại là 29.800.000 đồng (1.300 đô la Mỹ)) và 20 lần mức lương tối thiểu vùng đóng bảo hiểm thất nghiệp (88.400.000 đồng (3.800 USD) tùy vùng).


Mức lương đóng bảo hiểm xã hội là mức lương được quy định trong hợp đồng lao động, nhưng mức này được quy định tối đa bằng 20 lần mức lương tối thiểu đóng bảo hiểm xã hội do chính phủ quy định.Mức lương tối thiểu để đóng bảo hiểm xã hội là 1.295 đô la Mỹ. Khi hết thời hạn làm việc của người lao động nước ngoài tại Việt Nam, người lao động nước ngoài có thể yêu cầu cơ quan bảo hiểm xã hội thanh toán một lần số tiền đã đóng tùy thuộc vào các trường hợp sau.

  • Đến tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm;

  • Mắc bệnh hiểm nghèo như ung thư, bại liệt, HIV hoặc các bệnh khác do Bộ Y tế quy định;

  • Đủ điều kiện hưởng lương hưu nhưng không sinh sống tại Việt Nam nữa; và

  • Hợp đồng lao động của họ bị chấm dứt hoặc giấy phép lao động hết hạn mà không được gia hạn.

Các khoản trợ cấp

Trợ cấp ốm đau

Trợ cấp nghỉ ốm được trao cho những nhân viên bị ốm, hồi phục sau tai nạn hoặc chăm sóc trẻ em dưới bảy tuổi bị ốm. Chế độ trợ cấp và số ngày nghỉ áp dụng khác nhau tùy thuộc vào số năm người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian hưởng chế độ ốm đau trong một năm tối đa là 30 ngày với người lao động chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội và có thể tăng lên 60 ngày với người lao động đã đóng bảo hiểm trên 30 năm. Mức phụ cấp thay lương bằng 75% mức lương của tháng trước liền kề. Cần có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh để được hưởng trợ cấp nghỉ ốm.

Trợ cấp thai sản

Người lao động không chỉ được hưởng chế độ thai sản khi sinh con mà cả khi nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi với điều kiện đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ sáu tháng đến thời điểm mười hai tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. Trung bình, lao động nữ có quyền nghỉ thai sản trong bốn tháng. Nếu sinh đôi trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 30 ngày. Lao động nữ mang thai cũng được nghỉ 01 ngày cho mỗi lần khám thai, tối đa là 05 ngày. Ngoài ra, họ có thể hưởng chế độ thai sản khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu và kể cả khi thực hiện các biện pháp tránh thai như đặt dụng cụ tử cung, triệt sản. Trợ cấp thai sản mỗi tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Ngoài ra, người lao động còn được hưởng trợ cấp một lần bằng hai tháng mức lương tối thiểu chung cho mỗi con khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi.

Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Người lao động được hưởng trợ cấp TNLĐ, BNN nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên. Trường hợp mức suy giảm từ 5% đến 30% thì người lao động được hưởng trợ cấp một lần. Khả năng lao động giảm hơn 30 phần trăm đủ điều kiện cho họ được hưởng lương hưu. Mức trợ cấp cao hơn được cấp cho tỷ lệ mất khả năng lao động lớn hơn. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên ngoài mức lương hưu nêu trên thì được hưởng lương hưu chuyên cần bằng mức lương tối thiểu chung. Trường hợp người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh tật thì gia đình được trợ cấp một lần bằng 36 tháng lương tối thiểu chung.

Trợ cấp hưu trí

Đối tượng hưởng lương hưu là lao động nữ trên 55 tuổi hoặc lao động nam trên 60 tuổi có ít nhất 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Lương hưu tháng được tính trên số năm đã đóng bảo hiểm xã hội và mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội được xác định. Mức lương hưu tối đa bằng 75% mức lương trung bình trong khi mức lương hưu thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chuẩn. Người lao động đã đóng bảo hiểm xã hội trên 30 năm đối với nam và 25 năm đối với nữ được hưởng trợ cấp tuổi già bằng 0,5% mức bình quân tiền lương nhân với số năm đóng thêm. Đối với người chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu thì tùy theo số năm đóng BHXH mà được hưởng trợ cấp một lần. Cứ mỗi năm, người lao động được hưởng một lần rưỡi mức bình quân tiền lương tháng.

Trợ cấp tử vong

Khi chết, dù đang đóng bảo hiểm xã hội, đang đóng bảo hiểm xã hội, đang hưởng lương hưu, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng thì được quỹ bảo hiểm xã hội chi trả một khoản trợ cấp bằng 10 lần mức lương tối thiểu chung. để trang trải đám tang. Khi đáp ứng một số yêu cầu nhất định, một khoản trợ cấp tuất tương đương 50 phần trăm hoặc 70 phần trăm mức lương tối thiểu tiêu chuẩn sẽ được trao cho gia đình hoặc người thân của nhân viên hàng tháng, cho đến khi những người thân đó không còn đáp ứng các yêu cầu đó hoặc khi họ qua đời. Ngoài ra, trợ cấp tuất một lần với số tiền khác nhau cũng có thể được trả cho thân nhân của người chết tuỳ theo trường hợp.

So sánh bảo hiểm xã hội với bảo hiểm tư nhân

Các chương trình bảo hiểm xã hội khác với bảo hiểm tư nhân theo nhiều cách. Đóng góp thường là bắt buộc và có thể được thực hiện bởi người sử dụng lao động của người được bảo hiểm và nhà nước, cũng như bởi chính người được bảo hiểm. Ngoài ra, lợi ích không bị ràng buộc chặt chẽ với các khoản đóng góp như trong bảo hiểm tư nhân. Ví dụ, để làm cho các chương trình phục vụ các mục đích xã hội nhất định, một số nhóm được bao gồm trong số những người hưởng lợi mặc dù họ đã không đóng góp trong khoảng thời gian cần thiết. Lợi ích có thể được tăng lên để đáp ứng với sự gia tăng chi phí sinh hoạt, một lần nữa làm suy yếu mối liên hệ giữa đóng góp và lợi ích.


Tuy nhiên, bảo hiểm xã hội khác biệt đáng kể so với các hình thức hỗ trợ công khác. Các hệ thống bảo hiểm xã hội có xu hướng tự tài trợ, với các khoản đóng góp được đặt trong các quỹ cụ thể cho mục đích đó. Bởi vì việc trả trợ cấp nói chung dựa trên các khoản đóng góp và không dựa trên nhu cầu, nên sự cần thiết phải kiểm tra phương tiện được loại bỏ. Lợi ích trở thành một quyền và bất kỳ sự kỳ thị nào liên quan đến việc nhận tiền công sẽ giảm bớt. Ở một số quốc gia, các chương trình bảo hiểm xã hội giống bảo hiểm tư nhân ở chỗ mức đóng góp bắt buộc phản ánh các mức độ rủi ro khác nhau. Ví dụ, các khoản đóng góp cho các chương trình bảo hiểm thất nghiệp đối với những người sử dụng lao động có tỷ lệ sa thải và sa thải thấp có thể ít hơn so với những người có tỷ lệ cao hơn.


Có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia trong việc tài trợ cho các chương trình bảo hiểm xã hội. Úc, Thụy Điển và Đan Mạch nằm trong số những quốc gia mà nhà nước phải chịu một tỷ lệ chi phí cao. Việc phân phối chi phí cũng khác nhau trong mỗi quốc gia tùy theo chương trình cụ thể được đề cập. Ví dụ, thông thường người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí bảo hiểm thương tật cho người lao động.


Điểm giống nhau chính trong cả hai loại bảo hiểm là bảo vệ mọi người khỏi mọi tình huống, miễn là họ có những đóng góp cần thiết. Sự khác biệt, tuy nhiên, là nhiều hơn. Trong khi bảo hiểm xã hội chi trả cho tất cả mọi người và cung cấp lợi ích cho nhiều nhóm người khác nhau, chẳng hạn như người thất nghiệp hoặc những người từ 65 tuổi trở lên, bảo hiểm tư nhân chỉ trả lợi ích cho những người đã mua bảo hiểm.


Trong bảo hiểm xã hội, các khoản đóng góp là bắt buộc và được chính phủ khấu trừ tự động thông qua thuế. Tuy nhiên, bảo hiểm tư nhân yêu cầu các chủ hợp đồng trả phí bảo hiểm hàng tháng để giúp họ đảm bảo những lợi ích mà họ có thể chi trả bằng cách mua các hợp đồng phù hợp với ngân sách và nhu cầu của họ. Các chương trình bảo hiểm tư nhân cũng cung cấp bảo hiểm toàn diện hơn bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, vì các công ty bảo hiểm tư nhân cung cấp nhiều lựa chọn khác nhau với các mức giá khác nhau, nên phạm vi bảo hiểm phụ thuộc vào số tiền đóng góp mà một người sẵn sàng thực hiện cho sản phẩm bảo hiểm cụ thể của họ.


Social insurance - Pháp luật Doanh nghiệp

Kết luận

Bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm an sinh xã hội là bảo hiểm bù đắp thu nhập của người lao động do ốm đau, bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động, tử vong, hưu trí hoặc hết tuổi lao động. Số tiền được trả phụ thuộc vào đóng góp của người tham gia cho an sinh xã hội. An sinh xã hội được nhà nước bảo vệ theo yêu cầu của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho cuộc sống của nhân viên và gia đình họ. Bảo hiểm xã hội giúp bảo vệ an sinh xã hội và là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội của đất nước.

  • Biểu tượng chia sẻ Facebook
  • Biểu tượng chia sẻ X
  • Biểu tượng chia sẻ Instagram

Bài Đăng Hàng Đầu

Hình quảng cáo trong bài viết
Cơ hội vàng, đừng bỏ lỡ-Tặng ngay $100 MIỄN PHÍ để giao dịch tại TOPONE.
Vàng Vàng

Giúp nhà đầu tư kiếm tiền trong thị trường giao dịch với cơ chế hoàn tiền thường.

Chi phí và phí giao dịch demo

Bạn cần hỗ trợ?

7×24 H

Tải về APP
Biểu tượng đánh giá

Miễn phí tải xuống ứng