Những hiểu biết chung về lạm phát
Lạm phát là một trong những vấn đề gây khó chịu nhất mà các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách của chính phủ phải đối mặt, và là một nhân tố làm tăng nguy cơ suy thoái của các nước trên thế giới. Nguyên nhân gây ra lạm phát có rất nhiều và các công cụ thường được triển khai để chế ngự áp lực giá, trong một số trường hợp, có thể đẩy nền kinh tế vào suy thoái.
Khái niệm lạm phát
Định nghĩa
Lạm phát (Inflation) phản ánh sự gia tăng rộng rãi của giá cả hoặc sự giảm giá trị của tiền tệ. Ví dụ, giá ô tô mới và ô tô đã qua sử dụng đã tăng mạnh do tình trạng khan hiếm xe do thiếu các thành phần như chất bán dẫn. Nếu bạn không có ý định mua một chiếc xe, việc tăng giá ô tô có thể không ảnh hưởng đến bạn. Giá cao hơn trong một lĩnh vực cũng không nhất thiết dẫn đến lạm phát chung trên toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu giá của nhiều loại hàng hoá tăng cùng một lúc, điều này sẽ làm sức chi tiêu của người tiêu dùng giảm đi.
Để trả lời định nghĩa lạm phát là gì, ta có thể nói rằng lạm phát là tốc độ tăng giá trong một khoảng thời gian nhất định. Lạm phát thường là một thước đo rộng, chẳng hạn như mức tăng chung của giá cả hoặc mức tăng của chi phí sinh hoạt trong một quốc gia. Nhưng nó cũng có thể định nghĩa theo phạm vi hẹp là chỉ đối với một số hàng hóa nhất định ví dụ như thực phẩm hoặc dịch vụ. Dù định nghĩa theo cách nào đi nữa, lạm phát đều thể hiện sự tăng giá của tập hợp các loại hàng hóa và dịch vụ có liên quan trong một khoảng thời gian nhất định. Khoảng thời gian này thường được lựa chọn là một năm.
Lạm phát xảy ra do sự mất cân đối giữa cung và cầu, thay đổi chi phí sản xuất và phân phối hoặc do tăng thuế đối với sản phẩm. Khi nền kinh tế trải qua lạm phát, tức là khi mức giá của hàng hóa và dịch vụ tăng lên, giá trị của tiền tệ sẽ giảm xuống. Điều này có nghĩa là bây giờ mỗi đơn vị tiền tệ mua ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Nó có tác động tồi tệ nhất đối với người tiêu dùng. Giá cả hàng hóa ngày càng tăng cao khiến người tiêu dùng khó có thể mua được ngay cả những mặt hàng cơ bản trong cuộc sống. Điều này khiến họ không còn lựa chọn nào khác ngoài yêu cầu thu nhập cao hơn. Do đó, chính phủ cố gắng kiểm soát lạm phát.
Trái ngược với những tác động tiêu cực của nó, mức lạm phát vừa phải là đặc điểm của một nền kinh tế tốt. Tỷ lệ lạm phát 2 hoặc 3% có lợi cho nền kinh tế vì nó khuyến khích người dân mua nhiều hơn và vay nhiều hơn, bởi vì trong thời kỳ lạm phát thấp hơn, mặt bằng lãi suất cũng duy trì ở mức thấp. Do đó, chính phủ cũng như ngân hàng trung ương luôn cố gắng đạt được mức lạm phát hạn chế.
Điều gì tạo ra lạm phát?
Chính sách tiền tệ lỏng lèo thường là nguyên nhân chính của các đợt lạm phát cao và kéo dài. Nếu nguồn cung tiền tệ tăng quá mức so với quy mô của một nền kinh tế, điều này sẽ dẫn đến sự giảm giá trị đơn vị của tiền tệ. Nói cách khác, trong trường hợp này, sức mua của tiền tệ sẽ giảm và giá cả sẽ tăng lên. Mối quan hệ giữa cung tiền và quy mô nền kinh tế được gọi là lý thuyết lượng tiền. Đây là một trong những lý thuyết lâu đời nhất của nền kinh tế.
Sức ép từ phía cung hoặc cầu của nền kinh tế cũng có thể gây lạm phát. Các cú sốc về nguồn cung làm gián đoạn sản xuất, chẳng hạn như thiên tai, hoặc tăng chi phí sản xuất, ví dụ như việc giá cao tăng cao đều có thể làm dẫn đến nguồn cung tổng thể giảm. Kết quả của việc này là lạm phát “chi phí đẩy”, trong đó động lực tăng giá xuất phát từ sự gián đoạn nguồn cung. Tiêu biểu cho trường hợp này là lạm phát lương thực và nhiên liệu năm 2008. Vào thời gian đó, giá lương thực và nhiên liệu tăng mạnh trên hàng loạt các quốc gia thông qua thương mại về lương thực. Ngược lại, các cú sốc về nhu cầu ví dụ như sự phục hồi của thị trường chứng khoán hoặc các chính sách mở rộng khi ngân hàng trung ương hạ lãi suất hoặc chính phủ tăng chi tiêu thường có thể thúc đẩy nhu cầu tổng thể và tăng trưởng kinh tế trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu sự gia tăng nhu cầu này vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế, thì sự căng thẳng về nguồn lực dẫn đến việc phản ánh lạm phát “cầu kéo”.
Ngoài chính sách tiền tệ thì sự kỳ vọng cũng là một yếu tố quan trọng tạo ra lạm phát. Nếu người tham gia thị trường có dự đoán mức giá cao hơn thì những kỳ vọng này của họ sẽ tạo thành các cuộc đàm phán tiền lương và điều chỉnh giá theo hợp đồng ví dụ như việc tăng giá thuê. Một khi các hợp đồng được thực hiện với tiền lương và giá cả cao hơn theo thoả thuận của họ, điều này có nghĩa là kỳ vọng của họ đã xảy ra và tạo ra lạm phát. Và trong phạm vi mà mọi người đặt kỳ vọng vào quá khứ gần đây, lạm phát sẽ diễn ra theo các mô hình tương tự theo thời gian, dẫn đến quán tính lạm phát.
Cách tính lạm phát
Chi phí sinh hoạt của người tiêu dùng phụ thuộc vào giá của một loạt các loại hàng hoá và dịch vụ cùng với tỷ trọng của từng mặt hàng này trong ngân sách của hộ gia đình. Để đo lường chi phí sinh hoạt trung bình, các cơ quan chính phủ tiến hành các cuộc khảo sát với từng hộ gia đình để xác định một giỏ các mặt hàng họ thường mua và sau đó theo dõi sự thay đổi về giá cả của giỏ hàng này theo thời gian. Trong đó tỷ lệ chi phí nhà ở, bao gồm tiền thuê nhà và tiền thế chấp chiếm tỷ lệ lớn nhất trong giỏ này. Chi phí của giỏ hàng tại một thời điểm nhất định so với năm gốc được thể hiện bằng một chỉ số gọi là chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index - CPI) và tỷ lệ phần trăm sự thay đổi của chỉ số CPI trong một thời kỳ nhất định được gọi là lạm phát giá tiêu dùng. Đây là thước đo lạm phát được sử dụng rộng rãi nhất. (Ví dụ, nếu CPI của năm cơ sở là 100 và CPI hiện tại là 110, thì lạm phát là 10 phần trăm trong thời kỳ này.)
Lạm phát tiêu dùng thường tập trung vào các xu hướng cơ bản và kéo dài của lạm phát bằng cách loại trừ giá do chính phủ quy định và giá cả các sản phẩm dễ biến động hơn. Giá các sản phẩm dễ biến động hơn có thể kể đến như thực phẩm hay năng lượng vì chúng thường bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các yếu tố theo mùa hoặc điều kiện cung cấp tạm thời. Việc tính toán tỷ lệ lạm phát tổng thể - chẳng hạn đối với một quốc gia, và không chỉ đối với người tiêu dùng - yêu cầu một chỉ số có phạm vi bao phủ rộng hơn, chẳng hạn như chỉ số giảm phát GDP.
Giỏ hàng này thường sẽ được giữ cố định theo thời gian để tạo sự nhất quán nhưng đôi khi nó cũng được điều chỉnh để phản ánh các mô hình tiêu dùng đang thay đổi — ví dụ, để bao gồm hàng hóa công nghệ cao mới và thay thế các mặt hàng không còn được mua rộng rãi. Bởi vì nó cho thấy giá cả trung bình thay đổi như thế nào theo thời gian đối với mọi mặt hàng được sản xuất trong nền kinh tế, giá trị của chỉ số giảm phát GDP thay đổi hàng năm và cập nhật hơn so với rổ CPI chủ yếu là cố định. Mặt khác, công cụ giảm phát bao gồm các khoản không tiêu thụ được (chẳng hạn như chi tiêu quân sự) và do đó không phải là thước đo tốt để đánh giá chi phí sinh hoạt.
Đánh giá về lạm phát
Trong phạm vi mà thu nhập danh nghĩa của các hộ gia đình mà họ nhận được bằng tiền hiện tại, nếu thu nhập của họ không tăng nhiều như giá cả thì họ sẽ bị thiệt hơn trong trường hợp họ mua ít hơn. Nói cách khác, sức mua hoặc thu nhập thực tế - được điều chỉnh theo lạm phát - của họ giảm xuống.
Trên thực tế, giá cả thay đổi theo từng khung thời gian khác nhau. Một số, chẳng hạn như giá của hàng hóa giao dịch, thay đổi hàng ngày; những thứ khác, chẳng hạn như tiền lương do hợp đồng xác lập, mất nhiều thời gian hơn để điều chỉnh (hoặc là “cố định”, theo cách nói kinh tế). Trong môi trường lạm phát, giá cả tăng không đồng đều chắc chắn sẽ làm giảm sức mua của một số người tiêu dùng.
Một điều nữa cần xem xét là lạm phát cũng có thể làm sai lệch sức mua theo thời gian đối với các đối tượng là người nhận và người trả lãi suất cố định. Ví dụ, những người đã về hưu nhận được mức tăng cố định là 5 phần trăm hàng năm vào số tiền lương hưu của họ. Nếu tỷ lệ lạm phát lớn hơn 5 phần trăm thì sức mua của họ sẽ giảm đi. Mặt khác, người đi vay phải trả một khoản thế chấp với trị giá lãi suất là 5% sẽ được hưởng lợi từ tỷ lệ lạm phát này vì lãi suất thực (được tính bằng tỷ lệ danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát) sẽ bằng 0. Điều này giúp họ giải quyết khoản nợ một cách dễ dàng hơn nhiều và tỷ lệ lạm phát càng cao thì việc trả nợ càng nhanh chóng hơn. Đương nhiên, điều này chỉ xảy ra trong trường hợp thu nhập của họ tăng với tốc độ có thể đuổi kịp tỷ lệ lạm phát. Họ cũng cần phải lưu ý rằng thu nhập thực tế của họ cũng sẽ bị ảnh hưởng một phần bởi tỷ lệ lạm phát này.
Mặc dù lạm phát cao gây tổn hại cho nền kinh tế, nhưng giảm phát hoặc giá cả giảm cũng không được mong muốn. Khi giá đang giảm, người tiêu dùng sẽ trì hoãn việc mua hàng nếu họ có thể vì họ dự đoán giá sẽ thấp hơn trong tương lai. Xét theo khía cạnh kinh tế, điều này có thể hiểu là Đối các hoạt động kinh tế diễn ra với tần suất ít hơn, thu nhập do người sản xuất tạo ra nhỏ hơn và tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng sẽ thấp hơn. Hành động ngăn chặn sự giảm phát trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2007 là một trong những lý do khiến Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và các ngân hàng trung ương khác trên thế giới quyết định giữ lãi suất thấp trong một thời gian dài. Ngoài ra, các cơ quan này cũng phải thiết lập và thực hiện các chính sách tiền tệ khác để đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống tài chính của mình.
Hầu hết các nhà kinh tế hiện nay tin rằng lạm phát thấp, ổn định và - quan trọng nhất - có thể dự đoán được là tốt cho một nền kinh tế. Nếu tỷ lệ lạm phát thấp và các nhà đầu tư có thể dự đoán được tỷ lệ này thì điều đó đồng nghĩa với việc họ có thể nắm bắt và sử dụng tỷ lệ này trong các hợp đồng điều chỉnh giá và lãi suất sẽ dễ dàng hơn, làm giảm tác động xuyên tạc của nó. Hơn nữa, biết rằng giá cả sẽ cao hơn một chút trong tương lai sẽ thúc đẩy người tiêu dùng mua và tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ sớm hơn.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả hàng hóa và dịch vụ luôn luôn có khả năng thay đổi theo thời gian. Trong một số trường hợp giá cả sẽ tăng lên và ngược lại, cũng có lúc nó giảm xuống. Lạm phát xảy ra nếu có sự gia tăng trên diện rộng giá hàng hóa và dịch vụ, không chỉ của từng mặt hàng riêng lẻ; điều đó có nghĩa là hôm nay bạn có thể mua với giá 1 đô la ít hơn so với ngày hôm qua. Điều này có thể hiểu theo cách khác là tác động của lạm phát là giảm giá trị tiền tệ theo thời gian. Khi tính toán mức tăng giá trung bình, giá của các sản phẩm chúng ta chi tiêu nhiều hơn - chẳng hạn như điện - có trọng số lớn hơn giá của các sản phẩm chúng ta chi tiêu ít hơn - ví dụ như đường hoặc tem bưu chính. Tất cả các hàng hóa và dịch vụ mà các hộ gia đình tiêu dùng trong năm được thể hiện bằng một “rổ” các mặt hàng. Mỗi sản phẩm trong giỏ này đều có giá, có thể thay đổi theo thời gian. Tỷ lệ lạm phát hàng năm là giá của tổng rổ hàng hóa trong một tháng nhất định so với giá của nó trong cùng tháng một năm trước đó. Lạm phát tồn tại cả ưu điểm lẫn nhược điểm đối với nền kinh tế.
Bài Đăng Hàng Đầu
- Top 5 nhà đầu tư chứng khoán nối tiếng thế giới 2023-09-13
- Cách chơi chứng khoán Mỹ tại Việt Nam 2023-11-02
- 25 người giàu nhất thế giới năm 2023 2024-01-30
Giúp nhà đầu tư kiếm tiền trong thị trường giao dịch với cơ chế hoàn tiền thường.